Thông tin chung

  English

  Đề tài NC khoa học
  Bài báo, báo cáo khoa học
  Hướng dẫn Sau đại học
  Sách và giáo trình
  Các học phần và môn giảng dạy
  Giải thưởng khoa học, Phát minh, sáng chế
  Khen thưởng
  Thông tin khác

  Tài liệu tham khảo

  Hiệu chỉnh

 
Số người truy cập: 106,078,866

 Tính chất cơ học và độ bền của bê tông cát xỉ lò cao và khả năng ứng dụng trong công trình biển
Tác giả hoặc Nhóm tác giả: Nguyễn Tấn Khoa, Nguyễn Thanh Sang
Nơi đăng: Tạp chí Khoa học Giao thông vận tải; Số: Tháng 06/2020;Từ->đến trang: 568-582;Năm: 2020
Lĩnh vực: Khoa học; Loại: Bài báo khoa học; Thể loại: Trong nước
TÓM TẮT
Tro bay và xỉ lò cao là các loại vật liệu đã cho thấy được sự cải thiện các tính chất cường độ và độ bền khi được sử dụng trong bê tông cát. Sự kết hợp đồng thời của 2 loại vật liệu này với nhau có thể sẽ nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng so với việc dùng riêng từng loại. Bài báo trình bày một nghiên cứu thực nghiệm về tính chất cơ học và độ bền của bê tông cát (BTC) khi sử dụng kết hợp đồng thời TB và XLC. Các loại bê tông cát được chế tạo với lượng cố định 150 kg/m3 tro bay trong khi XLC thay thế chất kết dính (CKD) với các tỷ lệ khác nhau để xem xét sự ảnh hưởng của tỷ lệ sử dụng XLC đến tính chất của BTC đóng rắn. Một cấp phối bê tông thường (BTT) sử dụng lượng xi măng tương đương tổng lượng CKD trong BTC được chế tạo với mục đích so sánh. Kết quả nghiên cứu cho thấy tính chất cường độ chịu nén, cường độ ép chẻ, độ mài mòn trong nước của bê tông cát tối ưu với tỷ lệ XLC thay thế 20%. Độ thấm clorua của BTC thấp nhất với tỷ lệ XLC thay thế 30%. Tỷ lệ XLC thay thế càng lớn, độ giãn nở của BTC trong dung dịch sunfat càng thấp sau 6 tháng. Ba loại BTC ứng với tỷ lệ XLC thay thế 10%, 20%, 30% có tính chất cường độ và độ bền đáp ứng được yêu cầu của bê tông làm việc trong môi trường biển theo TCVN 12041: 2017 và CSA A23.1: 2004.
ABSTRACT
Fly ash (FA) and ground granulated blast furnace slag (GGBFS) are the materials that have shown an improvement in strength and durability properties of sand concrete (SC). The combination of these two materials together can be more effective than using them individually. The paper presents an empirical study on the mechanical and durability properties of sand concrete (SC) when used simultaneously with FA and BFS. Sand concrete types were fabricated with a fixed amount of 150 kg/m3 of FA while GGBFS replaces binder with different ratios to consider the impact of GGBFS rate on the properties of harden sand concrete. A traditional concrete uses the amount of cement equivalent to the total amount of binder of SC was fabricated for comparison purposes. Research shows that SC has optimal results of compressive strength, splitting compressive strength, under water abrasion with replacement GGBFS rate of 20%. The chloride penetration of SC was the best with replacement GGBFS rate of 30%. The higher the GGBFS replacement rate, the lower the expansion of SC in the sulfate solution after 6 months. Three types of SC with replacement GGBFS rate of 10%, 20%, 30% have the strength and durability properties that satisfy the requirements of concrete working in the marine environment according to TCVN 12041: 2017 and CSA A23.1: 2004.
© Đại học Đà Nẵng
 
 
Địa chỉ: 41 Lê Duẩn Thành phố Đà Nẵng
Điện thoại: (84) 0236 3822 041 ; Email: dhdn@ac.udn.vn