Thông tin chung

  English

  Đề tài NC khoa học
  Bài báo, báo cáo khoa học
  Hướng dẫn Sau đại học
  Sách và giáo trình
  Các học phần và môn giảng dạy
  Giải thưởng khoa học, Phát minh, sáng chế
  Khen thưởng
  Thông tin khác

  Tài liệu tham khảo

  Hiệu chỉnh

 
Số người truy cập: 107,006,521

 So sánh đối chiếu ý nghĩa tượng hình trong lượng từ tiếng Hán và danh từ chỉ đơn vị tiếng Việt.
Chủ nhiệm:  Nguyễn Thị Vân Anh; Thành viên:  Ts. Nguyễn Thị Minh TrangThs. Đoàn Thị Dung
Số: T2017-05-10 ; Năm hoàn thành: 2018; Đề tài cấp cơ sở; Lĩnh vực: Ngôn ngữ

Lượng từ trong tiếng Hán tương ứng với danh từ chỉ đơn vị (hay còn gọi là loại từ, danh từ biệt loại…) trong tiếng Việt, đều là từ dùng để biểu thị số lượng đơn vị của sự vật hoặc động tác. Lượng từ tiếng Hán và danh từ chỉ đơn vị tiếng Việt đa số mượn từ danh từ, nên ý nghĩa hình tượng của chúng có nguồn gốc từ danh từ, chủ yếu được thể hiện bằng thị giác. Ý nghĩa hình tượng của lượng từ tiếng Hán và danh từ chỉ đơn vị tiếng việt ngoài khả năng làm đơn vị biểu lượng ra, chúng còn có khả năng khiến chúng ta tưởng tượng được hình ảnh cụ thể sinh động của sự vật. Khả năng liên tưởng này đã khiến cho lượng từ tiếng Hán và danh từ chỉ đơn vị tiếng Việt có tác dụng mô tả và phân định sự vật. Từ khả năng mô tả và phân định sự vật đã xây dựng nên cơ chế mượn hình ảnh của sự vật này để mô tả một sự vật khác.

Tuy nhiên cơ chế mượn danh từ làm lượng từ không được tùy tiện, mượn thế nào và mượn của sự vật nào đều thể hiện cách nhìn nhận thế giới khách quan bên ngoài của con người, thể hiện phương thức tư duy độc đáo và cách thức tri nhận về thế giới khách quan của dân tộc đó. Nên cơ chế mượn danh từ để làm từ chỉ đơn vị trong tiếng Hán và tiếng Việt  không hoàn toàn giống nhau, bởi vì quan niệm thuộc tính không gian của hai dân tộc khác nhau. Quan niệm thuộc tính không gian này lại phụ thuộc văn hóa, lịch sử, địa lí của mỗi đất nước.

Dựa trên nền tảng lí thuyết ngôn ngữ học về thuộc tính không gian trong ngữ nghĩa, dựa vào chức năng mô tả của lượng từ tiếng Hán và danh từ chỉ đơn vị tiếng việt, chúng tôi muốn đi sâu khảo sát và so sánh thuộc tính không gian của loại từ chỉ đơn vị trong tiếng Hán và tiếng Việt, trên cơ sở đó phân tích cách tri nhận của của hai dân tộc về loại từ này.

            Từ đầu thế kỉ XXI, trên thế giới đã bắt đầu nghiên cứu áp dụng lí thuyết tri nhận vào việc giảng dạy ngoại ngữ, cho đến nay đã gần 20 năm, Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn tụt hậu. Việc giới thiệu phương pháp giảng dạy tri nhận có ý nghĩa tích cực trong việc tìm kiếm phương pháp giảng dạy mới, nâng cao chất lượng giảng dạy. Đưa các hiện tượng, quy luật ngôn ngữ mới được phát hiện áp dụng vào việc hướng đạo cho giảng dạy, vận dụng các nghiên cứu về quy luật tri nhận ngôn ngữ vào việc nâng cao ý thức tri nhận của học sinh sinh viên, ý thức về tính chung, nuôi dưỡng ngữ cảm. Đặc biệt trong lĩnh vực lí giải ngôn ngữ, tăng cường bồi dưỡng tri nhận, vừa giảng dạy kĩ năng, vừa tăng cường truyền thụ kiến thức tri nhận để tăng khả năng cảm nhận ngôn ngữ cho người học.

Từ khóa: lượng từ, danh từ chỉ đơn vị, ý nghĩa hình tượng, từ chỉ đơn vị, chức năng tu từ.

Abstract:

Quantifier in Chinese corresponds to the word unit (or word type, noun type ...) in Vietnamese, which is the word used to denote the number of units of things or movements. The amount of Chinese words and nouns in Vietnamese are mostly borrowed from nouns, so their meaning is derived from nouns, mainly represented by visual. Meaning of Chinese words and nouns in Vietnamese only in addition to the ability to make units of output, they also have the ability to imagine people the specific image of life. This association has caused the amount of Chinese words and nouns in Vietnamese units to describe and describe things. From the ability to describe and delineate things, the mechanism of borrowing the image of the object is described to describe another.

However, the mechanism of borrowing nouns that are arbitrary, borrowed and borrowed from anything expresses a view of the external world of man, expressing the unique way of thinking and the way Recognizing the objective world of the nation. The mechanism of borrowing nouns to do from the units only in Chinese and Vietnamese is not quite the same, because the concept of spatial attributes of two different ethnic groups. The concept of this spatial attribute depends on the culture, history, geography of each country.

Based on the theoretical basis of spatial properties in semantics, based on the descriptive function of Chinese words and nouns in Vietnamese only, we would like to explore and compare the spatial attributes of the type. from only in Chinese and Vietnamese.

Since the beginning of the 21st century, the world has begun to study the application of cognitive theory to foreign language teaching, so far nearly 20 years, Vietnam is still in the lag phase. The introduction of cognitive teaching methods has positive implications for finding new teaching methods, improving the quality of teaching. Introduce new phenomena and language rules that are found to be applied to scout teaching, apply research on the law of cognitive linguistics to improve the cognitive style of students, about the general, nurture feelings. Especially in the field of language interpretation, increased cognitive skills, as well as teaching skills, while enhancing the transmission of cognitive knowledge to increase the ability to feel the language learners.

Keywords: quantifier, unit noun, additional significance, unit word, rhetorical function.





Đây là một sản phẩm khoa học dành cho người nghiên cứu và người học quan tâm đến lĩnh vực đối chiếu ngôn ngữ giữa tiếng Trung và tiếng Việt dưới góc nhìn ngôn ngữ học tri nhận.

© Đại học Đà Nẵng
 
 
Địa chỉ: 41 Lê Duẩn Thành phố Đà Nẵng
Điện thoại: (84) 0236 3822 041 ; Email: dhdn@ac.udn.vn