Home
Giới thiệu
Tài khoản
Đăng nhập
Quên mật khẩu
Đổi mật khẩu
Đăng ký tạo tài khoản
Liệt kê
Công trình khoa học
Bài báo trong nước
Bài báo quốc tế
Sách và giáo trình
Thống kê
Công trình khoa học
Bài báo khoa học
Sách và giáo trình
Giáo sư
Phó giáo sư
Tiến sĩ
Thạc sĩ
Lĩnh vực nghiên cứu
Tìm kiếm
Cá nhân
Nội dung
Góp ý
Hiệu chỉnh lý lịch
Thông tin chung
English
Đề tài NC khoa học
Bài báo, báo cáo khoa học
Hướng dẫn Sau đại học
Sách và giáo trình
Các học phần và môn giảng dạy
Giải thưởng khoa học, Phát minh, sáng chế
Khen thưởng
Thông tin khác
Tài liệu tham khảo
Hiệu chỉnh
Số người truy cập: 112,298,152
Nghiên cứu mối quan hệ giữa sự bận rộn của kiểm toán viên và chất lượng kiểm toán: Bằng chứng thực nghiệm tại Việt Nam
Tác giả hoặc Nhóm tác giả:
Trương Hoàng Tú Nhi, Nguyễn Thị Thu Ngân
Nơi đăng:
Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Đại học Đà Nẵng;
S
ố:
Quyển 19, Số 2;
Từ->đến trang
: 26-32;
Năm:
2021
Lĩnh vực:
Kinh tế;
Loại:
Bài báo khoa học;
Thể loại:
Trong nước
TÓM TẮT
Nghiên cứu này kiểm định xem sự bận rộn của kiểm toán viên ảnh hưởng như thế nào đến chất lượng kiểm toán, trong đó chất lượng kiểm toán được đo lường bằng các khoản kế toán dồn tích có thể điều chỉnh. Nghiên cứu sử dụng mẫu gồm 313 công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2017 và là một trong những nghiên cứu đầu tiên phân tích thực nghiệm về vấn đề trên cho thị trường kiểm toán Việt Nam. Nghiên cứu thực hiện hồi quy các mô hình Jones và Jones điều chỉnh để xác định biến kế toán dồn tích có thể điều chỉnh; sau đó thực hiện mô hình hồi quy để kiểm định mối quan hệ giữa mức độ bận rộn của kiểm toán viên và chất lượng kiểm toán được đo lường bằng các biến kế toán dồn tích có thể điều chỉnh. Kết quả thực nghiệm chứng minh rằng kiểm toán viên càng bận rộn thì chất lượng kiểm toán được đánh giá thấp hơn.
ABSTRACT
Based on a sample of 313 firm observations in year 2017, this study assess whether audit partner busyness influence audit quality of listed companies in Vietnam. Using discretionary accruals as a proxy of audit quality, the empirical results support the hypothesis that the larger size of audit partner’s client portfolio, the lower audit quality. This result is consistent in the three models with three difference discretionary accruals measures. An implication of this result is that policy makers or regulators should consider a cap on the number of clients each auditor should audit per year. It is also possible that practitioners or audit firms could determine the optimal workload for each audit partner.
© Đại học Đà Nẵng
Địa chỉ: 41 Lê Duẩn Thành phố Đà Nẵng
Điện thoại: (84) 0236 3822 041 ; Email: dhdn@ac.udn.vn