Hàm lượng các KLN Mn, Zn, Pb, Cd và Cr trong đất và gạo:
Hàm lượng tất cả các KLN Mn, Zn, Pb, Cd và Cr trong đất
nông nghiệp tại 2 vùng nghiên cứu đều nằm trong giới hạn cho phép khi so sánh với
QCVN 03:2008 về hàm lượng KLN trong đất nông nghiệp của Bộ Tài nguyên Môi trường
và Tiêu chuẩn tối đa cho phép của KLN trong đất nông nghiệp của Trung Quốc.
Hàm lượng Cd, Cr và Zn trong gạo tại hai xã Hòa Châu
và Điện Phương vẫn nằm trong giới hạn cho phép theo QCVN 8-2:2011 của Bộ Y tế
(0,4 mg/kg); GB 2762-2012 của Trung Quốc (1,0 mg/kg). Tuy nhiên, hàm lượng
trung bình của Mn và Pb vượt quá nhiều lần so với TCCP của WHO (1994) và QCVN
8-2:2011 của Bộ Y tế.
Về
mức độ hấp thụ KLN của cây lúa:
Giá trị hệ số TCs của các KLN lần
lượt là TCs (Mn): 1,171 – 1,956; TCs (Zn): 0,536 – 0,695; TCs (Pb): 0,487 –
0,704; TCs (Cd): 2,554 – 330,238 và TCs (Cr): 0,369 – 0,757. Trong đó, giá trị
TCs của Pb và Cr ở cả hai vùng nghiên cứu xã Hòa Châu và xã Điện Phương đều cao
hơn so với khoảng được khuyến cáo.
Giá trị hệ số BAF của gạo trồng tại xã Hòa Châu theo
thứ tự Cd (104,398)
> Zn (0,453)
> Pb (0,39)
> Cr (0,3)
> Mn (0,222)
và tại xã Điện Phương theo thứ tự Cd (1,129) > Pb (0,575) > Zn (0,551) > Cr (0,344) > Mn (0,256) cho thấy rằng
khả năng tích lũy các KLN trong gạo ở những môi trường đất khác nhau là không
giống nhau.
Về
sự tương quan giữa hàm lượng các KLN trong gạo so với một số đặc điểm của môi
trường đất:
Hàm lượng Pb trong gạo có tương quan chặt, thuận (r
= 0,736) với hàm lượng Pb tổng số trong môi trường đất; tương quan vừa, nghịch
với EC đất (r = -0,421) và hàm lượng chất hữu cơ trong đất (r = -0,309); hàm lượng
Zn có tương quan vừa, nghịch với pH đất (r = -0,476); hàm lượng Cr có tương
quan vừa, thuận (r = 0,399) với hàm lượng Cr tổng số trong môi trường đất; hàm
lượng Mn có tương quan vừa, nghịch với EC đất (r = -0,336) và hàm lượng chất hữu
cơ trong đất (r = -0,397).
Về
rủi ro của KLN đối với sức khỏe con người khi tiêu thụ gạo được trồng tại hai
xã Hòa Châu và Điện Phương:
Chỉ số THQ của các KLN giảm dần
theo thứ tự Pb > Cd > Cr > Zn trên cả hai đối tượng người trưởng thành
và trẻ em. Trong đó, Pb là yếu tố có ảnh hưởng bất lợi và có tiềm năng gây rủi
ro sức khỏe nhất cho người dân khi sử dụng gạo trồng tại hai xã Hòa Châu và Điện
Phương.
Chỉ số HI thông qua việc tiêu thụ gạo
của người trưởng thành và trẻ em ở xã Hòa Châu lần lượt là 5,55 và 4,84 và ở xã
Điện Phương lần lượt là 13,76 và 11,99. Kết quả này cho thấy rằng, cả người trưởng
thành và trẻ em ở hai xã Hòa Châu và Điện Phương có thể gặp phải rủi ro sức khỏe
khi tiêu thụ gạo trong bữa ăn hằng ngày trồng tại khu vực này.
|