Production of soup powder from tuna's black/red meat using biotechnological process. Research code: 03.17/CNSHCB
Cá ngừ là nguồn lợi thủy sản có giá trị kinh tế cao, phân
bố rộng ở các vùng biển Việt Nam. Theo báo cá o Thí điểm tổ chức khai thác, thu
mua, chế biến, tiêu thụ cá ngừ theo chuỗi”, sản lượng khai thác cá ngừ trong 11
tháng 2015 đạt 91.356 tấn, trong đó sản lượng cá ngừ vây vàng và cá ngừ mắt to
đạt 17.206 tấn, cá ngừ vằn đạt 74.150
tấn. Tuy nhiên, sản lượng khai thác chỉ đáp ứng được 40% nhu cầu cho các nhà
máy chế biến còn lại 60% nguyên liệu là nhập khẩu Hiện tại, cả nước có hơn 100 nhà máy chế biến cá
ngừ, thì sản lượng chế biến và tiêu thụ
cá ngừ hàng năm đạt khoảng trên 200.000 tấn (theo Vinatuna), các sản phẩm xuất
khẩu chủ lực là thăn cá ngừ, đồ hộp cá ngừ ngâm dầu, cá ngừ xông khói. Kim
ngạch xuất khẩu đạt trên 400 triệu USD/năm, là mặt hàng xuất khẩu chính của
Việt Nam chỉ sau cá tra và tôm. Ngành
chế biến cá ngừ phát triển kéo theo lượng phế phụ phẩm còn lại tương đối lớn,
theo ước tính thì lượng phế phụ phẩm chiếm trên 50% tổng nguyên liệu sử dụng..
Phế liệu rắn từ ngành đóng hộp có thể lên tới 65% lượng
nguyên liệu ban đầu, bao gồm đầu, xương, nội tạng, mang, thịt tối màu, thịt đỏ
và da... ngành sản xuất thăn cá ngừ cũng tạo ra tới 50% phế liệu rắn, phần cơ
thịt đỏ có thể chiếm tới gần 20% trọng lượng nguyên liệu (Irineu Batista,
1999). Như vậy, hàng năm có khoảng trên 100.000 tấn phế phụ phẩm được loại ra
từ ngành công nghiệp chế biến cá ngừ , trong đó phần thịt sẫm màu chiếm
khoảng 2.000 tấn, đây là con số không hề
nhỏ vì giá trị dinh dưỡng của nó mang lại. Tuy nhiên, hiện nay phần lớn phế liệu chế biến cá ngừ
được tận dụng làm bột cá cho thức ăn
chăn nuôi hoặc dầu cá dạng thô, một phần
rất nhỏ được tận dụng sản xuất glelatin từ da cá . Trong phế phụ phẩm từ cá ngừ
thì phần cơ thịt sẫm màu được xem là có giá trị cao nhất. Mặc dù có giá trị
dinh dưỡng cao nhưng lượng thịt này chưa được sử dụng đúng với giá trị, thường
làm nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi hoặc bán ra các chợ đầu mối với giá
thành chỉ 4.000-5.000 đ/kg. Đây là một trong những nguyên nhân gây tổn thất sau
thu hoạch cho ngành chế biến cá ngừ. Hiện nay, việc phát triển các sản phẩm tương xứng với giá
trị dinh dưỡng cho phụ liệu từ ngành chế biến cá ngừ là một bài toán nhức nhối
cho các nhà máy chế biến trong nước. Trong khi đó, việc gia tăng giá trị và tận
dụng tối đa phụ phẩm sẽ góp phần giảm thiểu đáng kể thất thoát nguồn protein có
lợi, đồng thời cũng thúc đẩy phát triển các sản phẩm mới hấp dẫn người tiêu
dùng, tạo ra nhu cầu mới trên thị trường, nâng cao giá trị cho ngành chế biến
và khai thác cá ngừ là một việc làm quan trọng và cấp thiết hiện nay. Trên thế giới và tại Việt Nam vẫn còn ít những
công
trình nghiên cứu
về cơ thịt sẫm màu cá
ngừ nói riêng, và một số loài cá khác
nói chung. Cơ thịt sẫm màu (cơ thịt đỏ) khác biệt rất lớn so với cơ thịt sáng màu (thịt trắng) vì chúng
có hàm
lượng glycogen,
lipit
lớn hơn, mioglobin,
sắt
(75% sắt không phải của Hem) và
chytocrome C. Trong cơ thịt sẫm màu, hàm lượng protein tan trong muối thấp hơn 14% so với cơ thịt trắng, hoạt lực các enzyme protease cao, dẫn tới tốc độ quá trình tự phân hủy cũng mạnh hơn. Ví dụ, cơ thịt đỏ cá
Minh Thái chiếm 6,7% khi đánh bắt và
đạt tới 1/3 khối lượng con cá
khi giết mổ công nghiệp.
Khả năng tiêu hóa (tính theo trùng lông Tetrachimina pyriformis) tương đối so với sữa của cơ thịt sẫm màu là 62,5%, trong khi đó đối với cơ thịt sáng màu cũng chỉ đạt 62,5%. Thế nhưng
thời gian bảo quản cơ thịt sẫm
màu ở
âm 180C tính theo mức độ tích tụ malonic aldehyde không vượt quá 2 tháng. Theo nghiên
cứu đánh giá của Viện Nghiên cứu Hải sản Ấn Độ thì trong thịt sẫm màu của cá
ngừ chứa 26-28% protein và 1% chất béo, phân tích hàm lượng amino axit trong
thịt đỏ cho thấy có chứa tất cả các acid amin thiết yếu đối với sự phát triển
và duy trì các mô cơ, chiếm tới 49-52% tổng lượng acid amin, axit béo không bão
hòa đa nối đôi chiếm 65% tổng lượng axit béo, có khác biệt nhỏ giữa các loài.
Dầu chiết xuất từ thịt đỏ cá
ngừ khô đông lạnh bằng phương pháp chiết siêu tới hạn có hàm lượng lớn axit béo
không bão hòa đa nối đôi, trong đó chủ yếu là DHA và EPA. Về hàm lượng chất
khoáng, thịt đỏ giàu kali (549-624 mg/100g), natri (49 mg/100g) và canxi (41
mg/100g). Việc ứng dụng
công nghệ sinh học trong lĩnh vực chế biến thủy sản để nâng cao giá trị sử dụng
và giá trị kinh tế cho sản phẩm là một hướng phát triển rất khả quan. Trong dự
án này, nhóm nghiên cứu sẽ chú trọng đến việc sử dụng đa enzyme protease để
thủy phân sâu nguyên liệu thịt sẫm màu cá ngừ, từ đó tinh chế và tạo hình sản
phẩm bột gia vị dinh dưỡng cá ngừ. Từ đó mở ra hướng đi mới trong việc sử dụng
phế phụ phẩm trong công nghiệp chế biến cá ngừ
Sản phẩm bột
gia vị dinh dưỡng cá ngừ (500 gam/gói), được sử dụng như sản phẩm bột canh và
bột nêm hiện có trên thị trường. Sản phẩm bột gia vị dinh dưỡng cá ngừ cần đạt
các chỉ tiêu chất lượng và ATTP theo TCVN hiện hành.
|